Dân tộc thiểu số – Tintucdoanhnghiep.com https://tintucdoanhnghiep.com Trang tin tức & thông tin doanh nghiệp Thu, 21 Aug 2025 22:04:20 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tintucdoanhnghiep/2025/08/tintucdoanhnghiep.svg Dân tộc thiểu số – Tintucdoanhnghiep.com https://tintucdoanhnghiep.com 32 32 Nâng cao tỷ lệ tiêm chủng ở Sơn La: Sức mạnh từ cộng đồng dân tộc thiểu số https://tintucdoanhnghiep.com/nang-cao-ty-le-tiem-chung-o-son-la-suc-manh-tu-cong-dong-dan-toc-thieu-so/ Thu, 21 Aug 2025 22:04:17 +0000 https://tintucdoanhnghiep.com/nang-cao-ty-le-tiem-chung-o-son-la-suc-manh-tu-cong-dong-dan-toc-thieu-so/

Tại tỉnh Sơn La, một vùng cao hiểm trở của Việt Nam, việc đưa trẻ em đi tiêm chủng đầy đủ đang là một thách thức lớn. Không chỉ khoảng cách địa lý mà còn những e ngại và hiểu lầm đã tồn tại từ lâu là những rào cản chính. Trước tình hình này, dự án ‘Hỗ trợ kỹ thuật tăng cường công tác tiêm chủng tại các khu vực khó khăn tỉnh Sơn La’ đã được triển khai từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2025. Dự án này là kết quả của sự hợp tác giữa Trung tâm Kiểm soát phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh Sơn La (CDC Sơn La), Tổ chức PATH và Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương.

Nâng cao sức khỏe bà mẹ, trẻ em: Khi trưởng bản, hội phụ nữ 'gõ cửa từng nhà' vận động tiêm chủng- Ảnh 3.
Nâng cao sức khỏe bà mẹ, trẻ em: Khi trưởng bản, hội phụ nữ ‘gõ cửa từng nhà’ vận động tiêm chủng- Ảnh 3.

Dự án này đã mở ra một hướng đi mới trong việc tăng cường công tác tiêm chủng tại các khu vực khó khăn. Thông qua việc trao quyền và kết nối các lực lượng xã hội, dự án đã tạo nên những thay đổi đáng kinh ngạc từ chính những con người gần gũi nhất với cộng đồng. Ví dụ như tại xã Ngọc Chiến, tỉnh Sơn La, nơi mà đa số là người dân tộc Mông, nhiều phụ nữ vẫn chưa đưa con đi tiêm đầy đủ vì thiếu thông tin.

Cán bộ Trạm Y tế xã Ngọc Chiến khám bệnh cho người dân.
Cán bộ Trạm Y tế xã Ngọc Chiến khám bệnh cho người dân.

Chị Lèo Thị Đẹm, Chi hội trưởng Phụ nữ xã, đã rất nhạy bén khi nhận ra rằng một buổi nói chuyện riêng về y tế khó thu hút các chị em đang bận rộn việc nương rẫy, con nhỏ. Từ đó, chị Lèo Thị Đẹm đã mạnh dạn thay đổi, lồng ghép khoảng 30 phút nói chuyện tiêm chủng vào các buổi sinh hoạt định kỳ. Chị không chỉ nói về lợi ích vắc xin mà còn chia sẻ về tình hình dịch bệnh thực tế như uốn ván sơ sinh vẫn còn xuất hiện tại địa phương. Để tăng sức hút, chị phối hợp với cán bộ y tế tổ chức đo huyết áp, phát thuốc tẩy giun.

Kết quả đã vượt ngoài mong đợi, chỉ trong tháng đầu tiên tham gia truyền thông, chị đã tổ chức 7 buổi truyền thông (5 nhóm, 2 cá nhân), góp phần tăng tỷ lệ khám thai, tiêm uốn ván và nâng tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ tại xã. Đến tháng 6/2025, tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ tại xã Ngọc Chiến đạt 48,6% – gấp 4 lần so với 10,9% cùng kỳ năm 2024.

Không chỉ tại xã Ngọc Chiến, nhiều Chi hội Phụ nữ ở các xã khác cũng đã tham gia rất tích cực đưa truyền thông tiêm chủng vào hoạt động thường xuyên, cho thấy đây thực sự là một nhiệm vụ phù hợp với vai trò và thế mạnh sẵn có của họ. Tại xã Phiêng Cằm, một xã khu vực III của huyện Mai Sơn (cũ), trước thời điểm sáp nhập với xã Chiềng Nơi thành xã Phiêng Cằm (mới) hiện nay, đây là nơi cư trú của khoảng 1.506 hộ, trên 8.000 nhân khẩu thuộc 5 thành phần dân tộc (Mông, Khơ Mú, Thái, Dao, Kinh).

Ông Vàng A Nếnh, Trưởng bản Phiêng Phụ, đã rất trăn trở về việc tỷ lệ trẻ em được tiêm đầy đủ luôn ở mức thấp dưới 50%. Nhưng sau khi được tập huấn về kỹ năng truyền thông và phối hợp liên ngành trong tiêm chủng, ông nhận ra vai trò quan trọng của mình trong cộng đồng. Ông đã bắt đầu bằng việc phối hợp cùng nhân viên y tế và đoàn thể tổ chức họp bản để truyền thông, và sau đó sử dụng loa bản để phát thông điệp đơn giản bằng tiếng Mông.

Nhờ sự kiên trì và cách làm mới, ông đã thuyết phục được nhiều hộ gia đình đồng ý tiêm đầy đủ cho con. Hiện vẫn còn một số hộ trong bản cần nhắc nhiều lần mới đưa con đi tiêm, nhưng ông Nếnh dự định tiếp tục phối hợp Hội Phụ nữ và Đoàn Thanh niên để lồng ghép tiêm chủng vào sinh hoạt cộng đồng, giúp duy trì và nâng cao nhận thức chung của bà con trong bản.

Thành công của dự án ‘Hỗ trợ kỹ thuật tăng cường công tác tiêm chủng tại các khu vực khó khăn tỉnh Sơn La’ là kết quả của một mô hình phối hợp chặt chẽ, trong đó Trạm Y tế xã giữ vai trò điều phối, hỗ trợ kỹ thuật, ‘cầm tay chỉ việc’ để các lực lượng xã hội tự tin truyền thông đúng và hiệu quả. Trưởng bản, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên là những ‘cánh tay nối dài’ không thể thiếu.

Cách làm hiệu quả nhất là ‘đến đúng nơi, đúng lúc, gặp đúng người, nói đúng điều người dân cần’. Việc lồng ghép vào các hoạt động sẵn có, sử dụng tiếng dân tộc và liên hệ với tình hình dịch bệnh thực tế đã chứng tỏ sức mạnh vượt trội. Những kinh nghiệm quý báu từ Sơn La chính là tài liệu tham khảo sống động cho các địa phương, đặc biệt là các đơn vị y tế và đoàn thể sau sáp nhập, để cùng nhau chung tay tạo nên sự thay đổi bền vững trong công tác tiêm chủng. PATH và các đối tác hy vọng rằng những nỗ lực này sẽ tiếp tục được nhân rộng để bảo vệ sức khỏe cho trẻ em và cộng đồng trên toàn quốc.

]]>
Chị Út Tịch – Biểu tượng bất tử của người phụ nữ Nam bộ https://tintucdoanhnghiep.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/ Sun, 10 Aug 2025 12:48:14 +0000 https://tintucdoanhnghiep.com/chi-ut-tich-bieu-tuong-bat-tu-cua-nguoi-phu-nu-nam-bo/

Chị Út Tịch – Một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số Nam bộ

Chị Út Tịch, tên thật là Nguyễn Thị Út, sinh năm 1931 tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, đã trở thành một biểu tượng bất tử của người phụ nữ vùng dân tộc thiểu số ở Nam bộ trong cuộc chiến tranh giữ nước và dựng nước. Cuộc đời của chị là một bản anh hùng ca về lòng yêu nước, sự kiên trung và hy sinh cao cả.

Chị Út Tịch mồ côi mẹ từ nhỏ, từng bán chè, gánh nước, mót lúa để sinh nhai. Lấy chồng sớm, có 6 người con, chị là điển hình của mẫu người phụ nữ ‘không thích nói nhiều, đã nói là làm, làm bằng được, làm tới chết’. Chồng chị, ông Lâm Văn Tịch, là người dân tộc Khmer, cũng là cán bộ cách mạng hoạt động bí mật. Sau khi ông Tịch bị địch sát hại, chị quyết định bồng con lên rừng, xin vào đội du kích.

Với hành trang đơn sơ, chị Út Tịch đã chiến đấu qua muôn vàn gian khổ, không rời hàng ngũ dù có người khuyên chị nên về chăm sóc các con nhỏ. Chị không phải là người phụ nữ đầu tiên ra chiến trận, cũng không phải người duy nhất hy sinh, nhưng trong chị có đủ đầy cả tình mẹ, tình vợ, tình dân, tình đồng đội và tình yêu Tổ quốc.

Khi chị ngã xuống ở trận đánh năm 1968, con gái út của chị mới lên 3. Không có lễ tang rầm rộ, không kèn trống, không huy chương, nhưng hàng nghìn phụ nữ miền Tây đã khóc chị.

Chị Út Tịch không chỉ là một biểu tượng cách mạng mà còn là một hình bóng máu thịt trong đời sống của bà con miền Tây. Tượng đài chị Út Tịch được đúc bằng đồng, đặt tại Tam Ngãi, Vĩnh Long, là minh chứng cho sự kính trọng và biết ơn của người dân.

Ngày nay, vẫn có nhiều người phụ nữ tiếp nối bước chân chị Út Tịch, không mang súng ra trận nhưng không lùi bước trước những thử thách mới của thời bình. Họ là những người phụ nữ dân tộc thiểu số, từng bước vươn lên từ vùng căn cứ cách mạng, như chị Thạch Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Vĩnh Long, hay chị Nguyễn Thị Nhiền, Chủ tịch UBND xã Phong Thạnh.

Họ đã chứng minh rằng phụ nữ vùng căn cứ không phải là điểm yếu mà là điểm tựa để giữ Đảng, giữ nước và giữ niềm tin nhân dân. Trong thời đại hiện nay, với những thách thức mới, cần có chiến lược hỗ trợ những ‘Út Tịch thời bình’ để họ có thể phát triển và vươn lên.

Cụ thể, cần thiết lập Chương trình hành động quốc gia ‘Phụ nữ vùng căn cứ phát triển bền vững giai đoạn 2025-2035’, thành lập Quỹ ‘Ngọn lửa Út Tịch’ hỗ trợ phụ nữ vượt khó ở vùng đặc biệt khó khăn, bổ sung vào giáo trình và truyền thông đại chúng các hình tượng phụ nữ cách mạng tiêu biểu, và tổ chức hội thảo cấp quốc gia về ‘Phụ nữ vùng căn cứ – Từ lịch sử đến chính sách’.

]]>
Sơn La: Bảo tàng và Thư viện tỉnh tích cực bảo tồn và lan tỏa di sản văn hóa dân tộc https://tintucdoanhnghiep.com/son-la-bao-tang-va-thu-vien-tinh-tich-cuc-bao-ton-va-lan-toa-di-san-van-hoa-dan-toc/ Sun, 27 Jul 2025 20:01:14 +0000 https://tintucdoanhnghiep.com/son-la-bao-tang-va-thu-vien-tinh-tich-cuc-bao-ton-va-lan-toa-di-san-van-hoa-dan-toc/

Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đã và đang nỗ lực không ngừng để giữ gìn, phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc, đồng thời lan tỏa sâu rộng truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa đến với cộng đồng. Điều này thể hiện tinh thần trách nhiệm và tình yêu với nghề của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại đây. Việc làm này bắt nguồn từ tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của công tác bảo tồn di sản văn hóa, xem di sản văn hóa là linh hồn trường tồn của một dân tộc.

Thực hiện các nội dung đột phá về bảo tồn văn hóa phi vật thể, bảo tồn di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, quản lý hiện vật, tư liệu, Chi bộ Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực. Đồng chí Ngô Thị Hải Yến, Bí thư Chi bộ, Giám đốc Bảo tàng và Thư viện tỉnh cho biết, Chi bộ có 45 đảng viên, thường xuyên tổ chức các cuộc sinh hoạt chuyên đề với nội dung phù hợp với tình hình thực tiễn của cơ quan. Mỗi cán bộ, đảng viên cụ thể hóa, đăng ký 2-3 phần việc làm theo Bác cụ thể sát với nhiệm vụ chuyên môn.

Trong giai đoạn 2016-2024, đã có 15 di sản văn hóa phi vật thể của Sơn La được công bố và đưa vào danh mục quốc gia; trong đó, nghệ thuật Xòe Thái được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại; có 10 di tích được xếp hạng; hơn 35.000 hiện vật, tư liệu được bảo quản tại Bảo tàng Sơn La. Mỗi năm, đơn vị nghiên cứu, sưu tầm thêm từ 200 đến 300 hiện vật, tư liệu phục vụ trưng bày.

Bảo tàng và Thư viện tỉnh Sơn La cũng chú trọng ứng dụng số hóa di sản vào công tác chuyên môn; tiến hành kiểm kê đồng bộ, số hóa, chuẩn hóa tư liệu, hiện vật và đưa đến công chúng qua website hoặc mã QR-Code. Chi bộ đã chỉ đạo triển khai nhiều hoạt động quảng bá, giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp của Bác. Tại khuôn viên Bảo tàng tỉnh, trưng bày cố định chuyên đề “Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Sơn La”, giới thiệu hiện vật, hình ảnh quý về tình cảm của Bác đối với đồng bào, cũng như tình cảm của đồng bào các dân tộc Sơn La dành cho Bác.

Trong 2 năm (2023 và 2024), Chi bộ đã triển khai mô hình “Giáo dục truyền thống lịch sử địa phương tại điểm Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Sơn La” cho học sinh các trường tiểu học, THCS, THPT trên địa bàn tỉnh; tổ chức 154 cuộc giáo dục truyền thông, thu hút trên 320.000 lượt học sinh, sinh viên và chiến sĩ các lực lượng vũ trang tham gia.

Bằng tinh thần trách nhiệm và tình yêu với nghề, Chi bộ Bảo tàng và Thư viện tỉnh đang từng ngày học và làm theo Bác bằng những việc làm cụ thể, thiết thực trong gìn giữ lịch sử, văn hóa và lan tỏa hình ảnh Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại đến với mỗi người dân, hun đúc tình yêu quê hương, đất nước từ những giá trị di sản bền vững.

]]>
Đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số: Kích cầu phát triển toàn xã hội https://tintucdoanhnghiep.com/dau-tu-vao-vung-dan-toc-thieu-so-kich-cau-phat-trien-toan-xa-hoi/ Sun, 27 Jul 2025 15:57:55 +0000 https://tintucdoanhnghiep.com/dau-tu-vao-vung-dan-toc-thieu-so-kich-cau-phat-trien-toan-xa-hoi/

Những năm gần đây, hệ thống điện, đường, trường, trạm tại các xã vùng sâu, vùng xa đã được xây dựng và nâng cấp đồng bộ. Việc này đã giúp việc đi lại và giao thương của nhân dân trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. Những con đường đất đã được bê-tông hóa, nhựa hóa, giúp kết nối các vùng và tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế địa phương. Trường học và trạm y tế cũng được xây dựng khang trang, hiện đại, tạo điều kiện cho con em đồng bào được học tập đầy đủ và người dân được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.

Việc đầu tư vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ giúp kích cầu phát triển toàn xã hội mà còn giảm bớt khoảng cách giữa các hộ gia đình giàu và nghèo. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả lâu dài, cần có sự đầu tư chung cho toàn vùng và đầu tư riêng cho từng đối tượng. Ông Điểu Điều, Trưởng ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai, cho rằng cần có sự đầu tư cho từng hộ gia đình để những hộ nghèo, cận nghèo có động lực vươn lên. Trước mắt, cần đầu tư con giống, nông cụ cho đồng bào. Về lâu dài, cần đầu tư nghề, đầu tư thay đổi tư duy, ý thức cho đồng bào để họ tự vươn lên.

Một cách tiếp cận mới trong việc xóa nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là hỗ trợ các hộ gia đình có động lực vươn lên, thay vì chỉ đơn giản là hỗ trợ các nhu cầu cơ bản. Lâm Nhanh, một cán bộ đoàn của xã Lộc Hưng, tỉnh Đồng Nai, đã tiên phong trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị và mở ra hướng đi mới cho địa phương. Nhờ được Quỹ hỗ trợ nông dân hỗ trợ thêm 50 triệu đồng, anh đã chủ động chuyển đổi vùng đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dưa lưới. Hiện nay, anh đã hỗ trợ thêm 10 hộ dân khác trồng dưa lưới trên diện tích 10 ha.

Các xã biên giới như Tân Tiến, Thiện Hưng, Hưng Phước cũng đã được đầu tư các nguồn lực, trong đó có nguồn vốn của Chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, để tạo nên một hệ thống chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng hiệu quả và chất lượng. Trạm y tế của xã Hưng Phước đã có đủ hạ tầng kỹ thuật và khối phụ trợ, cũng như đủ thuốc trong danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại trạm y tế xã theo quy định hiện hành.

Khi hệ thống y tế được đầu tư đồng bộ, người dân vùng sâu, vùng xa có điều kiện tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh kịp thời, giảm bớt bệnh tật và nâng cao thể trạng và chất lượng cuộc sống. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đối với vùng sâu, vùng xa, góp phần củng cố niềm tin của đồng bào đối với chính quyền.

Thông qua tín dụng ưu đãi, người dân có điều kiện đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Chị Thị Geo, ở xã Đắk Nhau, năm 2022 được vay 50 triệu đồng từ nguồn vốn chính sách, đã mua một cặp bò giống và làm chuồng trại. Đến nay, đàn bò của chị đã phát triển lên năm con, tạo nguồn thu nhập ổn định và giúp gia đình chị chính thức thoát nghèo.

Những nguồn vốn chính sách của trung ương và địa phương như những cơn ‘mưa dầm’ thấm sâu vào đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa, từng bước thay đổi cuộc sống của người dân.

]]>
Vốn đầu tư công cho vùng dân tộc thiểu số ‘mắc kẹt’ vì nhu cầu thực tế không rõ ràng https://tintucdoanhnghiep.com/von-dau-tu-cong-cho-vung-dan-toc-thieu-so-mac-ket-vi-nhu-cau-thuc-te-khong-ro-rang/ Mon, 21 Jul 2025 01:35:26 +0000 https://tintucdoanhnghiep.com/von-dau-tu-cong-cho-vung-dan-toc-thieu-so-mac-ket-vi-nhu-cau-thuc-te-khong-ro-rang/

Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) giai đoạn 2021-2030, giai đoạn 1 từ năm 2021-2025 (Chương trình 1719) đã được triển khai với mục tiêu đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội và thu hẹp khoảng cách về mức sống giữa vùng đồng bào DTTS&MN và cả nước. Theo Ban chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng và Ban chỉ đạo đã tích cực chỉ đạo các bộ, ngành tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.

Nhờ đó, kết quả giải ngân đã có sự cải thiện rõ rệt. Năm ngoái, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách Trung ương đạt 83% kế hoạch, cao hơn nhiều so với năm 2022 chỉ đạt 25,6%. Trong giai đoạn 2022-2025, tổng vốn ngân sách Trung ương giao thực hiện Chương trình 1719 là khoảng 89,7 nghìn tỷ đồng, bao gồm 49,1 nghìn tỷ vốn đầu tư phát triển và gần 40,6 nghìn tỷ vốn sự nghiệp.

Tính đến nay, kết quả giải ngân vốn ngân sách Trung ương đã phân bổ thực hiện chương trình giai đoạn 2022-2024 đạt xấp xỉ 48 nghìn tỷ, tương đương 72,6% kế hoạch. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn một số vướng mắc và khó khăn trong triển khai chương trình.

Cụ thể, đối tượng thụ hưởng một số chính sách hỗ trợ đầu tư từ Chương trình 1719 có xu hướng thu hẹp so với nhu cầu vốn của giai đoạn 2021-2025. Quy định áp dụng các tiêu chí số hộ nghèo, hộ cận nghèo, tỷ lệ hộ nghèo, xã đặc biệt khó khăn… được xác định từ năm 2020, 2021 để áp dụng phân bổ vốn cho cả giai đoạn 2022-2025 đã không còn phù hợp với nhu cầu vốn thực tế.

Ngoài ra, còn nhiều vướng mắc liên quan tới quy định đối tượng thuộc các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới không tiếp tục được hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia. Mức hỗ trợ thực hiện một số nội dung còn thấp, chưa thu hút, khuyến khích các đối tượng tham gia. Công tác chuẩn bị đầu tư của một số địa phương còn bất cập, chưa sát thực tế, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn.

Nhìn chung, Chương trình 1719 đã đạt được một số kết quả tích cực trong việc giải ngân vốn đầu tư công, tuy nhiên vẫn còn nhiều thách thức cần phải vượt qua để đảm bảo mục tiêu của chương trình. Để đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả của chương trình, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và địa phương trong việc tháo gỡ các vướng mắc và khó khăn, cũng như việc điều chỉnh, bổ sung các chính sách hỗ trợ phù hợp với nhu cầu thực tế của vùng đồng bào DTTS&MN.

Một số giải pháp có thể được xem xét để đẩy nhanh tiến độ và hiệu quả của chương trình, như tăng cường công tác chuẩn bị đầu tư, nâng cao mức hỗ trợ cho các nội dung, và xem xét điều chỉnh các tiêu chí phân bổ vốn để phù hợp với nhu cầu thực tế. Bên cạnh đó, việc tăng cường giám sát, đánh giá và thanh tra cũng là cần thiết để đảm bảo hiệu quả và minh bạch trong việc sử dụng vốn đầu tư công.

]]>